Lễ hội xứ Thanh trên hành trình di sản…

Lễ hội là một phần ảnh xạ, chứa đựng những thông điệp về bản sắc văn hóa. Xứ Thanh – vùng đất “địa linh nhân kiệt”, phát tích của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam, nơi tinh hoa văn hóa ngàn năm hội tụ vẫn luôn vinh dự và tự hào là “cái nôi” của nhiều lễ hội tiêu biểu, độc đáo gắn với di tích lịch sử – văn hóa, danh thắng trong lịch sử dân tộc. Trong niềm vinh dự và tự hào ấy, mỗi thế hệ người dân xứ Thanh càng phải nêu cao tinh thần, trách nhiệm bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của quê hương.

Lễ hội cầu phúc đền Độc Cước (TP Sầm Sơn). Ảnh: Hương Thảo

Trung tuần tháng 2 âm lịch, thành phố biển xinh đẹp Sầm Sơn mời gọi bước chân du khách về với đền Độc Cước tham dự lễ hội cầu phúc. Ngôi đền thiêng tọa lạc trên hòn Cổ Giải, quanh năm nghe tiếng sóng biển dội vào vách đá và những mong cầu, ước nguyện của ngàn vạn du khách ghé thăm. Ngôi đền nhắc nhớ đến công lao của vị thần Độc Cước, người quyết xẻ thân mình đánh tan loài qủy biển, mang lại cuộc sống yên bình cho người dân nơi đây. Theo cuốn “Linh tích Sầm Sơn” (Hoàng Thăng Ngói, NXB Thanh Hóa, tập 1) cho biết: Lễ cầu phúc đền Độc Cước là đại tế của xã Lương Niệm xưa, gồm 4 làng lớn nhất của vùng Sầm Sơn, 4 năm tổ chức một lần vào các năm: Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Làng đăng cai phải chuẩn bị sân bãi và tất cả mọi phí tổn, kể cả lễ vật dâng cúng thần. Các làng rước kiệu Thành hoàng làng mình về nơi tổ chức lễ hội, kiệu thần Độc Cước để trên rồi đến kiệu các làng theo thứ tự thần sắc: Thượng thượng đẳng, thượng đẳng, trung đẳng thần… Vui nhất là cả vùng Sầm Sơn rước kiệu diễu qua các làng dọc bãi biển rồi tụ hội về khu vực đền Độc Cước. Ngoài ra, người dân được hòa mình vào phần lễ với nhiều hoạt động độc đáo như: kéo co, vật tay, cà kheo… Độc đáo, mang đậm sắc thái văn hóa vùng biển là thế nhưng suốt một thời gian dài, lễ hội cầu phúc đền Độc Cước bị mai một. Đến năm 2008, ngành văn hóa Sầm Sơn mới chính thức khôi phục lại lễ hội này. Lễ hội cầu phúc đền Độc Cước được phục dựng trên cơ sở lệ tục, phong tục mà cộng đồng cư dân lưu giữ như: nghi thức tế lễ, rước thần, lễ vật…

Mảnh đất nằm bên bờ sông Mã – xã Thiệu Quang (Thiệu Hóa) nói riêng, xứ Thanh nói chung vừa qua đón nhận niềm vui nghệ thuật trình diễn dân gian múa đèn chạy chữ, hát chèo chải cổ được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Múa đèn chạy chữ, hát chèo chải cổ là những hoạt động đặc sắc, tiêu biểu nhất của lễ hội Ngư võng phường làng Nhân Cao. Đây là lễ hội mang nét đặc trưng của văn hóa sông nước, gợi lại trong tâm thức thế hệ cháu con làng Nhân Cao hôm nay và mai sau hình dung về một thời quá vãng của làng, tự thuở con tôm, con tép nuôi lớn bao ước mơ, hoài bão… Lễ hội Ngư võng phường được tổ chức trong 4 ngày (từ ngày mùng 8 đến 12 tháng Giêng âm lịch hằng năm). Trong lễ hội, bên cạnh múa đèn chạy chữ, hát chèo chải cổ, làng tổ chức nhiều hoạt động, trò chơi, trò diễn dân gian như: rước thuyền, đánh đu, cờ người, múa lân…

Trong những ngày sôi động âm thanh, rực rỡ sắc màu, thăng hoa tâm thức, tín ngưỡng, đâu chỉ xứ Thanh mà khắp dặm dài đất nước, đâu đâu cũng thấy chộn rộn niềm vui. Tiến sâu vào mỗi làng, bản, cộng đồng dân cư, chúng ta đều được say đắm với nét đẹp lễ hội mang đậm sắc thái văn hóa truyền thống… Cả nước có khoảng 8.000 lễ hội; trong đó, theo thống kê từ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, xứ Thanh có khoảng gần 300 lễ hội, cụ thể: 4 lễ hội truyền thống cấp tỉnh, 1 lễ hội văn hóa, du lịch cấp tỉnh, 273 lễ hội cấp huyện, xã (262 lễ hội truyền thống, 11 lễ hội văn hóa du lịch).

Trên hành trình văn hóa ấy, xứ Thanh có 15 di sản đã được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, trong đó sự góp mặt của các lễ hội truyền thống tựa hồ như những nét chấm phá độc đáo, không chỉ góp phần làm đa dạng, phong phú mà cho thấy mạch nguồn lịch sử, tinh hoa văn hóa lắng đọng hàng trăm năm như: Lễ hội Kin Chiêng Boọc Mạy (xã Xuân Phúc, Như Thanh), Lễ hội Cầu Ngư (xã Ngư Lộc, Hậu Lộc), Lễ hội đền Độc Cước (TP Sầm Sơn), Lễ hội Mường Ca Da (Quan Hóa); Lễ hội đền Mưng (xã Trung Thành, huyện Nông Cống), Lễ hội đền Bà Triệu (Hậu Lộc), Lễ hội Mường Xia (Quan Sơn)… Đắm mình trong không gian lễ hội phong phú, rộn ràng ấy, bên cạnh niềm vui, háo hức, hoan ca, nhiều người không khỏi băn khoăn, trăn trở về số lượng lễ hội, về việc lãng phí thời gian, tiền bạc và bài toán quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội trong thời đại mới.

Trong cuốn “Lễ tục – lễ hội truyền thống xứ Thanh” (NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2021), tác giả Lê Huy Trâm – Hoàng Anh Nhân cho biết: Tiêu chí để tính đơn vị lễ hội bao gồm các yếu tố: có thần tích, có lệ tục, có thời gian hội và lễ, có trò diễn riêng, mang đậm sắc thái văn hóa làng… Nếu lấy đó làm quy chuẩn, thước đo thì con số hàng trăm lễ hội được thống kê trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa liệu đã là chính xác?

Những năm gần đây, công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa nói chung (bao gồm di sản văn hóa vật thể, di sản văn hóa phi vật thể) có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa với chương trình phát triển du lịch đạt nhiều kết quả. Bên cạnh đó, từ thực tiễn, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy nhiều khó khăn, hạn chế trong lĩnh vực này. Nhiều di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc mới chỉ được kiểm kê và nhận diện, chưa có giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị hiệu quả. Nhiều di sản văn hóa phi vật thể đã bị mai một do không truyền dạy được cho thế hệ sau (thất truyền) hoặc không được cộng đồng thường xuyên thực hành… Việc thực hành di sản phi vật thể, đặc biệt là lĩnh vực trình diễn dân gian là công việc khó, đòi hỏi phải có sự tâm huyết, nhiệt tình, đầu tư thời gian, công sức từ phía người học và người truyền dạy. Trong khi đó, hiện nay, trước áp lực của nền kinh tế thị trường, sức hấp dẫn từ những điều mới mẻ, nhiều người trẻ không mặn mà, đam mê trong việc tiếp nối truyền thống của cha ông. Và ở chiều ngược lại, cơ chế, chính sách hỗ trợ các nghệ nhân hoạt động trong loại hình văn hóa phi vật thể còn hạn chế, chưa tương xứng…

Nguồn kinh phí đầu tư cho việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa hiện nay chưa nhiều, kể cả các di sản đã được đưa vào danh mục di sản văn hóa quốc gia… Bà Cao Thị Ngân, Phó Giám đốc Trung tâm Văn hóa, Thông tin, Thể thao và Du lịch TP Sầm Sơn trăn trở: Những năm gần đây, cùng với sự quan tâm từ các cấp, các ngành của tỉnh, lãnh đạo thành phố, công tác quản lý Nhà nước, bảo tồn và phát huy giá trị di sản, trong đó có lễ hội tại Sầm Sơn đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, trên thực tế, các quy chế về công tác quản lý Nhà nước đối với lễ hội còn hạn chế, thiếu tính hệ thống, đồng bộ để các cấp cơ sở có “khung” tham chiếu, kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh; cơ chế, chính sách dành cho người quản lý di tích, người truyền dạy, thực hành di sản văn hóa phi vật thể nói chung còn thiếu và yếu; các thủ tục hành chính liên quan công tác quản lý, bảo tồn và phát huy di sản, nhất là đối với các di tích cấp quốc gia, cấp quốc gia đặc biệt, các lễ hội đã được công nhận di sản văn hóa phi vật thể quốc gia thiếu tính linh hoạt…

Với sự đa dạng, phong phú, mang đặc trưng tiêu biểu sắc thái văn hóa địa phương, vùng miền, lễ hội chính là những nhánh phù sa màu mỡ kiến tạo nên dòng chảy văn hóa xứ Thanh. Vì lẽ đó, công tác bảo tồn và phát huy giá trị tiêu biểu ấy không đặt nặng lên vai một cá nhân, tổ chức, địa phương nào mà gắn với trách nhiệm của cả cộng đồng. Trong thời gian tới, bên cạnh nỗ lực thiết lập cơ chế, chính sách, quy chế quản lý Nhà nước, tỉnh Thanh Hóa cần huy động có hiệu quả các nguồn lực nhằm làm tốt hơn nữa công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội nói riêng, di sản văn hóa phi vật thể nói chung.

Thảo Linh

Nguồn Báo Thanh Hóa: https://baothanhhoa.vn/bao-hang-thang/le-hoi-xu-thanh-tren-hanh-trinh-di-san/181344.htm