PGS.TS La Khắc Hòa đã nêu ra 2 ý kiến mong muốn phản biện một cách khoa học về Công nghệ giáo dục của Giáo sư Hồ Ngọc Đại đang gây tranh cãi trong thời gian qua.
Chia sẻ với PV, PGS.TS La Khắc Hòa (còn có bút danh là Lã Nguyên), giảng viên lâu năm của trường ĐH Sư phạm Hà Nội cho rằng, cá nhân ông đã theo dõi khá kỹ các tranh cãi xung quanh cuốn sách Tiếng Việt 1 – Công nghệ giáo dục do GS Hồ Ngọc Đại chủ biên.
Từ nghiên cứu thực tế, ông có 2 ý kiến mong muốn phản biện lại nhằm làm rõ mô hình Công nghệ giáo dục của GS Hồ Ngọc Đại đã ứng dụng, thực hiện.
Thứ nhất, theo PGS La Khắc Hòa, qua thực tế nghiên cứu, theo dõi, cá nhân ông thấy rằng, Công nghệ giáo dục của GS Hồ Ngọc Đại dựa vào một mô hình khoa học quá cũ, đã bị vượt qua.
Cụ thể, từ nửa đầu thế kỉ XX trở về trước, giáo dục thường dựa vào hai mô hình khoa học là mô hình xã hội học và mô hình sinh học.
Khi dựa vào mô hình xã hội học, giáo dục xem cá nhân là thực thể xã hội, chủ trương đào tạo cá nhân thành con người văn hóa hiểu theo nghĩa rèn luyện để con người tự nhiên, con người bản năng thành những cá nhân tuân thủ các chuẩn mực, định chế được áp đặt từ bên ngoài.
Người ta gọi đây là đường lối giáo dục theo tư tưởng “văn hóa hóa”, “văn minh hóa” con người (theo Levi-Strauss: văn hóa là lấy hệ thống chế tài áp đặt lên con người tự nhiên).
PGS La Khắc Hòa.
Còn dựa vào mô hình sinh học, giáo dục đề cao con người tự nhiên, chủ trương đào tạo con người xã hội thành những nhân cách tự do.
Có thể gọi đây là quan điểm giáo dục theo tư tưởng “phản văn minh” (Anti-civilisation) và Công nghệ giáo dục của GS Đại dựa vào mô hình sinh học này.
PGS Hòa chỉ rõ, từ nửa sau thế kỉ XX, xác định bản chất của con người và hình thức tồn tại thực tế của cá nhân để vạch ra tư tưởng giáo dục.
Ông nêu rõ, ngoài Giáo sư Đại và nền giáo dục của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, không ai dựa vào cặp phạm trù đối lập “tự nhiên – xã hội”, “dã man – văn minh” như thế nữa.
“M.M. Bakhtin cho rằng “con người vừa là cá nhân tự trị, nó lấy nó làm thước đo thế giới, vừa là con người xã hội, vì hình thức tồn tại thực tế của nó là tôi người khác”.
Phát triển quan điểm “nhân vị” của Bakhtin, trên phạm vi toàn thế giới, người ta chủ trương giáo dục con người theo tư tưởng đối thoại”, PGS Hòa nêu.
Ý phản biện thứ 2, PGS Hòa cho rằng, Công nghệ giáo dục của GS Hồ Ngọc Đại dựa vào nhiều giả định nhầm lẫn và có hai nhầm lẫn ai cũng có thể nhận ra.
Cụ thể, đầu tiên, GS Đại hình dung học trò như những trang giấy trắng, những cái bình “rỗng nghĩa” có thể “vẽ lên đó nhiều thứ, đổ vào đó nhiều nghĩa theo ý của nhà giáo dục”.
Nói cách khác, GS Đại hình dung đối tượng của Công nghệ giáo dục là những “chủ thể phi kí ức”.
“Những ai có chút kiến thức về quá trình phát triển của con người, từng đọc sách phân tâm học, sách về vô thức tập thể, sách “thai giáo”, sách tâm lí học trẻ em, sách viết về lịch sử văn minh nhân loại đều có thể phản bác giả định nhầm lẫn nói trên”, PGS Hòa nêu.
Thứ hai, PGS Hòa chỉ ra việc GS Đại giả định muốn dạy học sinh lớp 1 nói và viết phải dạy chúng phân biệt “âm” và”từ”, tuy nhiên, ngay từ khi đứa trẻ mới vài tháng tuổi, biết “hóng chuyện” và trong lúc trò chuyện với nó, tập cho nó nói, người lớn đã dạy trẻ những bài học giao tiếp đầu tiên.
“Cho nên, muốn phát triển năng lực nói và viết cho học trò, cần dạy các em đọc thông viết thạo và các thể loại giao tiếp lời nói.
Tôi cho rằng phân biệt âm và từ là việc của nhà nghiên cứu chứ không phải mục đích học tiếng Việt của những đứa trẻ có thể sau này làm bác sĩ thú y, hay kĩ sư nông nghiệp”, ông nhấn mạnh.
Vị PGS này nêu quan điểm, đây là 2 ý được ông nêu ra nhằm làm rõ các vấn đề cho mọi người thấy dưới góc nhìn phản biện khoa học, không có hàm ý cá nhân hay nhằm bất cứ mục đích nào khác.