“ĐÔ GÙ” – một nhân chứng lịch sử trong ngày 30-4

(Tổ Quốc) – Cựu chiến binh Phạm Duy Đô, quê ở phường Trần Lãm, Tp Thái Bình. Ông nguyên là đại đội trưởng của Trung đoàn đặc công 116 thời chống Mỹ, một nhân chứng lịch sử trực tiếp dẫn đường cho xe tăng của đại đội trưởng Bùi Quang Thận, tiến vào dinh Độc Lập ngày 30/4/1975.

Dáng người nhỏ thó lại có cái lưng hơi gù nên ông được bà con khu phố gọi bằng cái tên thân mật “Đô Gù” từ ngày ông rời quân ngũ về địa phương. Tuy nhiên, ít người biết được những chiến công oanh liệt của ông trong suốt những tháng năm chống Mỹ cứu nước trên chiến trường miền Nam.

Tháng 8 năm 1969, mới 17 tuổi, Phạm Duy Đô đã viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Chàng trai có vóc dáng săn chắc ngày ấy được tuyển chọn vào Binh chủng Đặc công và huấn luyện ở đơn vị đặc công nước tại Thủy Nguyên, Hải Phòng. Là một trong những chiến đấu viên xuất sắc của binh chủng, năm 1971, Phạm Duy Đô được binh chủng chọn biểu diễn nghệ thuật chiến đấu của bộ đội Đặc công nước Việt Nam cho Fidel Castro, Chủ tịch Cu Ba xem và được Chủ tịch bắt tay khen ngợi. Tháng 5 năm 1971, Phạm Duy Đô vinh dự cùng 9 đồng đội trong đoàn công tác đặc biệt bảo vệ và dẫn đường cho 12 lưu học sinh là con các cán bộ chủ chốt nước bạn Campuchia và 12 lưu học sinh của Lào về nước. Sau đó, ông ở lại Nam Bộ chiến đấu tại chiến trường các tỉnh Đồng Nai, Biên Hòa và trinh sát nội thành Tp Sài Gòn.

Tham gia hàng trăm trận đánh lớn nhỏ với Mỹ, ngụy, Phạm Duy Đô có nhiều kỷ niệm khó quên. Ông nhớ nhất là trên cương vị đại đội trưởng đặc công, chỉ huy đánh kho bom Long Bình ngày 13/8/1973. Khi đưa bộ đội vào trinh sát, ông phát hiện cửa kho bom địch làm chìm và mở bằng điện, việc đặt mìn phá kho bom gặp khó khăn. Sau khi điều nghiên thực địa, ông nảy ra sáng kiến và đề xuất cách đánh kho bom qua “lỗ thông hơi”, bằng cách đo kích thước ống khói rồi khâu bao tượng, nhồi chất nổ C4 nhét qua lỗ thông hơi từ trên xuống. Trận ấy, đơn vị của ông thắng lớn, phá hủy hơn 40 nghìn quả đạn pháo các loại của Mỹ.

“ĐÔ GÙ” – một nhân chứng lịch sử trong ngày 30-4 - Ảnh 1.

CCB Phạm Duy Đô và đồng đội tại bảo tàng Binh chủng Đặc Công xem lại bức ảnh cùng phất cờ chiến thắng tại Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975

Kéo áo để lộ ra những vết thương trên cơ thể và phần xương sống nổi gù, ông Đô bảo “Đô Gù là đây”. Đó chính là kỷ niệm chiến trường không thể nào quên khi ông chỉ huy đơn vị đánh chiếm chiến đoàn 43 hồi tháng 10/1973, một trong những trận đánh cam go nhất. Trận đánh này ông Đô bị đạn của địch bắn găm vào đùi và bị cây đè gẫy đốt sống, bất tỉnh. Đồng đội tưởng ông đã hy sinh nên đã đưa ra bờ suối gần đó để sáng hôm sau chôn cất. Nhưng đến nửa đêm, hơi sương lạnh khiến Phạm Duy Đô tỉnh lại và được đồng đội đưa về tuyến sau điều trị. Chỉ ít tháng điều trị, vết thương lành nhưng sương sống nổi cục và Phạm Duy Đô có thêm thương hiệu Đô Gù từ đấy.

Tháng 4/1974, nhận chỉ thị của cấp trên, phân đội của ông phải tìm cách bắt sống tên đại tá Kiệt, Trưởng phòng quân lực Chiến đoàn 43 Ngụy, đóng ở Hố Nai, Biên Hòa. Sau nhiều ngày trinh sát, nắm chắc quy luật đi lại của tên Kiệt, phân đội đặc công của Phạm Duy Đô đã đóng giả một tốp quân ngụy. Khi tên Kiệt đi vào khu vực rẫy cà phê gần đó, phân đội đặc công đã ập lại “mời thượng cấp xuống xe ” và bắt sống tên Kiệt mà không mất một viên đạn.

Những ngày cuối tháng 4/1975, đại đội 1, tiểu đoàn 19, đoàn 116 được trên giao nhiệm vụ tấn công kho xăng An Bình, chiếm giữ cầu Biên Hòa. Phạm Duy Đô đã chỉ huy đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tiêu diệt một trung đoàn địch, bảo vệ cầu Biên Hòa và cầu Đồng Nai.

Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, đại đội trưởng Phạm Duy Đô cùng chính trị viên Trần Văn Đảo, Phạm Huy Nghệ nhận nhiệm vụ cắm cờ quân giải phóng, sẵn sàng đón đại quân của ta tiến vào giải phóng Sài Gòn. Ông có một tấm bản đồ nhỏ, đánh dấu các mục tiêu trọng yếu nội đô Sài Gòn, Gia Định mà trước đó ông được cấp trên tin tưởng giao nhiệm vụ nhiều lần đột nhập trinh sát và ghi lại được.

Trong cuốn hồi ký của Thượng tướng Trần Văn Trà, nguyên Tư lệnh Quân giải phóng Miền Nam viết về giờ phút vinh quang của dân tộc và giờ phút cuối cùng của chế độ Việt Nam cộng hòa, có đoạn viết “Chiếc xe tăng T54 đi đầu, húc vô cổng sắt dinh Độc Lập vào 11 giờ 10 phút. Chiến sỹ trung đoàn Đặc công 116 nhảy xuống xe, bao vây toàn bộ khu nhà, lùng sục bắt bọn lính bảo vệ, nhân viên ra ngồi tập trung trước bãi cỏ. Một tổ chiến sỹ đặc công do Phạm Duy Đô và Phạm Huy Nghệ cùng cầm cờ chạy lên ban công cao phía trước dinh tổng thống ngụy quyền, đứng phất cờ hồi lâu. Đúng 11giờ 30 phút, cờ được kéo lên cột cờ chính trước ban công, đó là cờ của đại đội trưởng xe tăng Bùi Quang Thận”. Tổ đặc công lại chạy xuống các tầng dưới lục soát từng phòng. Đến tầng cuối, toàn bộ nội các ngụy quyền đang ngồi quanh chiếc bàn bầu dục trong phòng chính phủ. Đồng chí Đô chĩa súng AK hô to: “Các ông đã bị bao vây. Ai có súng bỏ súng xuống đầu hàng”. Không ai nhúc nhích, không ai nói một lời. Phạm Duy Đô ra lệnh cho đồng chí Phạm Huy Nghệ cầm súng AK đứng ở cửa và giao nhiệm vụ: “Đồng chí đứng gác ở đây. Không ai được ra khỏi phòng này”. Vừa lúc ấy, các đồng chí Bùi Tùng- chính ủy; đồng chí Tài – Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 203; đồng chí Minh, chủ nhiệm chính trị và đồng chí Dương -chỉ huy trưởng cánh Đông bộ đội đặc công, biệt động kịp thời đến cửa, Phạm Huy Đô đưa đoàn cán bộ vào”…

Người chiến sĩ đặc công ấy trở lại với đời thường lại sống giản dị, khiêm nhường như chưa từng trải qua trận mạc sinh tử cận kề bao giờ. Không làm cán bộ, dù là một chức vụ nhỏ nhất, ông lại tự nguyện nhận làm bảo vệ cho HTX dịch vụ nông nghiệp Lạc Đạo, phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình từ năm 1990. Đã trải qua nhiều đời lãnh đạo HTX thay đổi nhưng ông “Đô gù” thì vẫn giữ chức bảo vệ.

Căn phòng giành cho người làm bảo vệ Hợp tác xã được bố trí cạnh cầu thang tầng một, sắp xếp khá gọn gàng. Ông làm việc tháng đủ ba mươi ngày, kể cả Chủ nhật. Những năm cuối thế kỷ 20, HTX trả công bảo vệ cho ông Đô bằng thóc, mỗi tháng 20 kg, mỗi năm được hai tạ tư, cả nhà ăn được dăm tháng. Còn bây giờ, ruộng của nông dân, của HTX được nhà nước quy hoạch xây dựng các công trình và đô thị hóa, HTX Lạc Đạo chỉ còn 56 ha đất sản xuất nông nghiệp, công bảo vệ được HTX thanh toán bằng tiền hàng tháng, mỗi tháng ông Đô được phụ cấp 200 ngàn đồng.

“Không phải ban quản trị HTX không quan tâm, mà đây là việc tôi thích, tôi tình nguyện làm, tôi không đòi hỏi chế độ. Mấy năm trước, các đồng chí lãnh đạo HTX động viên tôi nghỉ, các đồng chí bảo người ta đi làm bảo vệ mỗi tháng được trả ba, bốn triệu đồng, bác làm bảo vệ cho HTX mỗi tháng được trả 200 ngàn đồng, chúng cháu ái ngại quá. Tôi nói, tôi có đòi hỏi HTX trả thêm công đâu, cứ để tôi làm ở đây cho vui. Tôi quen việc rồi”.

Chỉ tay sang phía lớp học mầm non gần văn phòng HTX nông nghiệp, ông Đô nói tiếp: “Mấy năm nay lớp mẫu giáo mầm non lắp máy vi tính, các cô giáo cứ sợ không có người bảo vệ, đêm hôm kẻ gian nó vào lấy mất, mà thuê bảo vệ thì các cô lấy đâu ra tiền. Tôi nhận trông coi miễn phí, chẳng cần công cán gì, mà cũng chẳng thấy nghèo, còn các cô giáo thì mừng lắm”.

Mấy năm trước, vào ban đêm, thỉnh thoảng bọn nghiện hút cũng ghé thăm. Tôi đánh tiếng e hèm một cái rồi xua con chó sủa vang là bọn nghiện lủi mất tăm. Gần 30 năm làm bảo vệ văn phòng HTX, ông Đô không để xảy ra mất an toàn, chưa bao giờ phải sử dụng đến võ của lính đặc công.

Chuyện ông Đô gù – một nhân chứng lịch sử, giờ là bảo vệ HTX dịch vụ nông nghiệp là thế!

 

Đức Toàn – Công Liêm , theo Trí Thức Trẻ

http://ttvn.toquoc.vn/do-gu-mot-nhan-chung-lich-su-trong-ngay-30-4-20200425112710301.htm