Nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm cho biết ông là “một trong những người có may mắn” được học hỏi từ Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười, “một người lãnh đạo cần, kiệm, liêm, chính”.
Báo điện tử Trí thức trẻ xin trân trọng gửi tới bạn đọc trích đoạn bài viết với tựa đề gốc “Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước” do tác giả Diệu Ân ghi trong cuốn sách “Đồng chí Đỗ Mười – Dấu ấn qua những chặng đường lịch sử” của NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.
Bài viết ghi lại những chia sẻ của Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm về những lần tiếp xúc, làm việc cùng Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười khi ông làm Thứ trưởng Bộ Ngoại giao.
—
Trước năm 1986, thời kỳ tôi làm Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, tôi mới có dịp tiếp xúc với đồng chí Đỗ Mười qua những cuộc họp do đồng chí triệu tập.
Cuộc họp nào đồng chí chủ trì cũng rất sôi nổi. Đồng chí vừa nghe vừa trao đổi ý kiến, ý nào không rõ là đồng chí hỏi lại ngay, buộc người phát biểu phải trình bày rõ ý kiến của mình. Đồng chí thường xoáy vào những vấn đề có ý kiến khác nhau, buộc mọi người tham dự cuộc họp phải nói rõ chính kiến của anh để tìm ra lẽ phải.
Ngay những trường hợp đồng chí nêu trước suy nghĩ của mình, đồng chí vẫn lắng nghe những ý kiến trái với ý kiến của mình và không ngần ngại tiếp thu khi cảm thấy ít nhiều có lý.
Điều tôi có ấn tượng là trong cuộc sống đồng chí rất giản dị, bao giờ cũng chỉ mặc bộ đại cán bạc màu; trong tiếp xúc luôn sôi nổi nhưng chân tình, thân mật.
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng l2-1986), tôi được cử làm Đại sứ tại Liên Xô. Tháng 4-1987, tôi sang Mátxcơva nhận nhiệm vụ thì tháng 5-1987, Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ ta do đồng chí Nguyễn Văn Linh – Tổng Bí thư và đồng chí Đỗ Mười – Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng dẫn đầu sang thăm và làm việc với lãnh đạo Liên Xô.
Lúc đó, đất nước ta đang trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội nghiêm trọng. Ta phải dựa vào sự giúp đỡ của các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, chủ yếu là Liên Xô để khắc phục khó khăn.
Qua đàm phán, lãnh đạo Liên Xô quyết định dành cho ta khoản viện trợ 1,2 tỷ rúp chuyển nhượng (l rúp chuyển nhượng có giá trị gần bằng 1 đôla rưỡi) mỗi năm, trong đó một phần là viện trợ không hoàn lại, phần lớn là cho vay ưu đãi, lãi suất rất thấp, thời gian cho vay kéo dài.
Số tiền đó ta phân bổ bao nhiêu cho thiết bị toàn bộ (tức các nhà máy hoàn chỉnh bao nhiêu cho vật tư và bao nhiêu cho hàng hóa tiêu dùng…) là tùy ta, miễn là số lượng ta đề ra bạn chấp nhận được. Thường những công trình cụ thể, những vật tư quý hiếm, các cơ quan có trách nhiệm của ta phải bàn với lãnh đạo các ngành có liên quan của bạn.
Tại hội đàm, đồng chí Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng bạn chỉ thỏa thuận về nguyên tắc, còn số lượng cụ thể thì các Bộ trưởng của bạn dự hội đàm nếu nắm chắc tình hình tán thành đề nghị của ta thì hai bên thông qua luôn, còn thì các đồng chí Bộ trưởng sẽ gặp Bộ trưởng liên quan của ta để bàn cụ thể sau.
Đối với những vấn đề quan trọng, để tranh thủ thời gian, đồng chí Đỗ Mười thỏa thuận với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng bạn để đồng chí cùng với Bộ trưởng ta làm việc trực tiếp với Bộ trưởng bạn. Cách làm đó đạt kết quả cao. Một phần do đồng chí trình bày có sức thuyết phục, một phần do các Bộ trưởng bạn kính nể đồng chí.
Sau khi đoàn về nước, các bộ, ngành liên quan có trách nhiệm theo dõi và đôn đốc bạn giao hàng đáp ứng yêu cầu của ta. Song, thường việc giao hàng không tránh được sự chậm trễ.
Với tư cách người đứng đầu Chính phủ, đồng chí Đỗ Mười nắm rất vững yêu cầu của ta và theo dõi rất sát tiến độ giao hàng của bạn, nhất là đối với thiết bị, vật tư thiết yếu và hàng hóa quan trọng. Hằng ngày, sau buổi giao ban buổi sáng thấy mặt hàng nào cần đốc thúc bạn chuyển sang gấp là đồng chí gọi điện thoại sang yêu cầu tôi làm việc ngay với bạn.
Nhưng múi giờ ta sớm hơn múi giờ Mátxcơva 3 tiếng vào mùa hè và 4 tiếng vào mùa đông. Khi ở trong nước các cơ quan bắt đầu làm việc thì ở Mátxcơva mới 2-3 giờ sáng. Đồng chí thường gọi luôn, mỗi tuần 3-4 lần nên có hôm tôi mạnh dạn trình bày:
“Anh ơi, anh gọi lúc này ở Mátxcơva mới 2-3 giờ sáng, chúng tôi vừa mới đi ngủ anh ạ”.
“Thế à, tớ chủ quan cứ nghĩ như ở nhà, tớ xin lỗi nhé, lần sau rút kinh nghiệm tớ gọi chậm hơn”.
Bẵng đi khoảng năm hôm, đồng chí không gọi vào giờ đó nữa nhưng sau đó đồng chí quên đi và lại tiếp tục gọi. Tôi tự nhủ: “Đồng chí đã đích thân đôn đốc những việc mà đáng lẽ ra đồng chí không phải lo đến, mình không có quyền vì giờ giấc mà để lỡ việc của đồng chí trong khi đồng chí còn bao nhiêu công việc phải xử lý”.
Chính nhờ sự đốc thúc của đồng chí mà tôi được đồng chí Guxép, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, Chủ nhiệm phân ban hợp tác với Việt Nam nhận xét:
“Nhờ sự nhắc nhở kịp thời của Đại sứ Việt Nam mà phân ban của tôi thực hiện tốt các cam kết với Việt Nam, nhất là trong tình hình các đồng chí đang gặp rất nhiều khó khăn”.
Thực tình, phải nói đó là nhờ sự quan tâm của đồng chí Đỗ Mười.
Đầu tháng 8-1991, tôi kết thúc nhiệm kỳ đại sứ tại Liên Xô, về nước nhận nhiệm vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thay đồng chí Nguyễn Cơ Thạch.
Tháng 9-1992, nhận lời mời của Ủy viên Quốc vụ viện kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham, tôi sang thăm Trung Quốc trao đổi về quan hệ giữa hai nước và chuẩn bị cho cuộc tới thăm chính thức của Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ ta.
Vào đầu tháng 11-1992, nhận lời mời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam do Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt dẫn đầu sang thăm Trung Quốc.
Một cuộc đi thăm có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu việc bình thường hóa quan hệ chấm dứt hơn 10 năm quan hệ căng thẳng, mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước Việt Nam – Trung Quốc.
Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ ta được lãnh đạo và nhân dân Trung Quốc đón tiếp trọng thị và thân tình.
Tôi còn nhớ, ngoài cuộc hội đàm chung giữa hai Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ hai nước còn có nhiều cuộc gặp riêng giữa đồng chí Giang Trạch Dân – Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và đồng chí Lý Bằng – Thủ tướng Quốc vụ viện với đồng chí Đỗ Mười và đồng chí Võ Văn Kiệt.
Chính các cuộc gặp riêng này mới cụ thể hóa những nguyên tắc và phương hướng khôi phục và phát triển quan hệ được thỏa thuận trong hội đàm chung. Hai bên trao đổi ý kiến về những biện pháp, những việc làm cụ thể để cho quan hệ nhanh chóng trở lại bình thường.
Cụ thể là tiến tới ký kết hiệp định về biên giới trên bộ trước năm 2000 để xây dựng biên giới hòa bình hữu nghị giữa hai nước khi bước vào thế kỷ XXI. Thực hiện việc phân định vịnh Bắc Bộ một cách công bằng, hợp lý, chậm lắm là vào năm 2000.
Đối với những vấn đề ít nhiều phức tạp do lịch sử để lại, khó có thể giải quyết một sớm một chiều, thì lãnh đạo cao nhất của hai Đảng, hai Chính phủ thỏa thuận giải quyết từng bước trên tinh thần đồng chí, láng giềng hữu nghị vì lợi ích của hai Đảng, hai nước, vì hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực.
Sau khi ký thông cáo chung về chuyến thăm, đoàn rời Bắc Kinh đi thăm thành phố Quảng Châu (tỉnh Quảng Đông); đặc khu kinh tế Thâm Quyến – khu kinh tế tiêu biểu cho thành công của công cuộc cải cách mở cửa ở Trung Quốc với những thành quả vượt bậc và thành phố Nam Ninh (thủ phủ Khu tự trị dân tộc Choang – Quảng Tây).
Khi gặp lãnh đạo các địa phương này, đồng chí Đỗ Mười đặt rất nhiều câu hỏi, từ chủ trương cải cách mở cửa, những biện pháp tiến hành, những chủ trương cụ thể đến kết quả đạt được, so sánh với tình hình trước khi tiến hành cải cách.
Đến đâu đồng chí cũng yêu cầu được đi xem một số cơ sở sản xuất, kinh doanh. Đồng chí đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát triển công nghiệp và cải thiện đời sống nhân dân.
Lúc này chúng ta đã tiến hành công cuộc đổi mới được 5 năm, tôi hiểu đồng chí muốn tìm hiểu kinh nghiệm của các địa phương bạn để đối chiếu với cách làm của ta nhằm rút ra những bài học thiết thực cho quá trình tiếp tục công cuộc đổi mới về sau.
Một số cuộc trao đổi ý kiến hay đi thăm cơ sở đồng chí chia sẻ ngay với chúng tôi những điều đồng chí tâm đắc những điều ta nên học tập.
Về dấu ấn của đồng chí Đỗ Mười trên lĩnh vực đối ngoại, tôi không thể kể hết được, nhưng không thể không nói đến ý kiến quyết định của đồng chí đối với việc Việt Nam gia nhập ASEAN, bước mở đầu quá trình đưa Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới.
Cuối năm 1991, đầu năm 1992, sau khi vấn đề Campuchia được giải quyết, các văn kiện về lập lại hòa bình ở Campuchia được ký kết, đồng chí Võ Văn Kiệt với tư cách Chủ tịch Hội đồng Bộ trướng dẫn đầu Đoàn đại biểu Chính phủ ta thăm các nước ASEAN nhằm cải thiện và thúc đẩy quan hệ với các nước ASEAN trên cơ sở đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở đa phương hoá, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, được thông qua tại Đại hội toàn quốc lần thử VII của Đảng (tháng 6-1991).
Trong dịp này, một số nhà lãnh đạo ASEAN gợi ý Việt Nam xem xét vấn đề gia nhập ASEAN. Đồng chí Võ Văn Kiệt trao đổi với chúng tôi, các thành viên trong đoàn, để thống nhất ý kiến về báo cáo với Bộ Chính trị.
Khi về nước, đồng chí giao cho tôi đến báo cáo với đồng chí Tổng Bí thư. Nghe tôi trình bày xong, đồng chí Đỗ Mười nói ngay:
“Tình hình đã thay đổi, căn cứ kết quả chuyến đi thăm của anh Kiệt với thái độ của các nước ASEAN đã thay đổi so với mấy năm nước khi còn vấn đề Campuchia. Họ lại chủ động hợp tác để đưa khu vực phát triển. Lúc này ta gia nhập ASEAN là thích đáng. Gia nhập ASEAN sẽ làm tăng thêm sức mạnh của ta, tăng thêm vị thế của ta”.
Vấn đề sau đó được đưa ra xin ý kiến Bộ Chính trị và Bộ Chính trị đã nhất trí thông qua.
Khi làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cũng như khi làm Tổng Bí thư, đồng chí Đỗ Mười rất quan tâm đến công tác ngoại giao, vì đây là một trong ba lĩnh vực đặt dưới sự lãnh đạo chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị.
Đồng chí rất chú ý những hội nghị quốc tế ta tham dự như Đại hội đồng Liên hợp quốc, Hội nghị Phong trào không liên kết, các hội nghị ASEAN, nên mỗi lần tôi đi họp về đồng chí thường chủ động yêu cầu tôi báo cáo diễn biến, kết quả hội nghị và trao đổi ý kiến với tôi về những vấn đề cần báo cáo Bộ Chính trị.
Với tư cách Bộ trưởng Ngoại giao, Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách đối ngoại, tôi thường tháp tùng đồng chí trong các chuyến thăm chính thức các nước. Mỗi chuyến đi để lại cho tôi một số kỷ niệm nhất định.
Song có một chuyến thăm để lại cho tôi ấn tượng khó quên, đó là chuyến thăm Hàn Quốc. Trong hội đàm với Tổng thống Hàn Quốc, có một việc đồng chí không hề đề cập, không nói ra nhưng phía Hàn Quốc lại rất chú ý.
Sau hội đàm trong một cuộc gặp riêng với đồng chí, Tổng thống Hàn Quốc thẳng thắn và chân thành nêu:
“Tôi rất cảm phục sự tế nhị của người Việt Nam. Có một việc do lịch sử để lại tuy trong hội đàm ngài Tổng Bí thư không đề cập đến vì tế nhị nhưng chúng tôi vẫn canh cánh trong lòng. Đó là việc quân đội Hàn Quốc tham gia chiến tranh Việt Nam và đã gây nhiều thiệt hại cả về người và của cho nhân dân Việt Nam. Đó là món nợ mà chúng tôi phải trả.
Tôi hứa với ngài Tổng Bí thư sẽ yêu cầu các bộ, ngành, các tập đoàn và công ty Hàn Quốc hợp tác tốt với Việt Nam để trả món nợ này. Mong ngài Tổng Bí thư thông cảm”.
Chúng tôi được biết ngay sau chuyến thăm của đồng chí Đỗ Mười, Tổng thống Hàn Quốc đã triệu tập đại diện các bộ ngành và tập đoàn, công ty Hàn Quốc giao trách nhiệm. Điều trăn trở này cũng đã được Tổng thống Hàn Quốc nêu với Thủ tướng Võ Văn Kiệt, lúc Thủ tướng sang thăm Hàn Quốc.
Trên thực tế, đúng như Tổng thống Hàn Quốc đã hứa, chỉ một thời gian ngắn sau ngày hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, Hàn Quốc đã đưa quan hệ với Việt Nam phát triển. Có thể nói với tốc độ kỷ lục nhanh chóng, Hàn Quốc trở thành một nước đầu tư trực tiếp hàng đầu vào Việt Nam quan hệ thương mại nhanh chóng được mở rộng….
* Tiêu đề bài viết do tòa soạn đặt lại.