Nếu Mỹ và Trung Quốc đi đến một thoả thuận thương mại thì tâm lý của các nhà đầu tư có thể được xoa dịu và tăng trưởng kinh tế cũng khả quan hơn. Nhưng những vấn đề thực sự của lại trầm trọng hơn nhiều và liên quan tới cấu trúc tài chính của nước này.
Một lần nữa, sự lo lắng của các nhà đầu tư trên thế giới đang đổ dồn về phía Trung Quốc. Họ hoàn toàn có lý do hợp lý. Tăng trưởng kinh tế trong quý III đã giảm xuống còn 6,5%, đây là tốc độ chậm nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2009. Theo đó, Apple còn đưa ra cảnh báo rằng doanh số iPhone tại Trung Quốc đang tụt dốc do kinh tế nước này giảm tốc và có thể ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng toàn cầu, cũng như lợi nhuận của các công ty.
Dẫu vậy, người dân Trung Quốc đã phải đối mặt với tình trạng này một thời gian trước. Dù đã chứng kiến sự khởi sắc của thị trường chứng khoán trong thời gian gần đây, thị trường Thượng Hải vẫn giảm đến hơn 1/4 so với mức đỉnh của năm 2018, triển vọng thậm chí cũng không khả quan hơn. Các nhà máy trong nước cũng phải chịu sức ép từ những đòn thuế quan từ Mỹ. Hồi tháng 12, kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc bất ngờ đón nhận con số thấp tệ hại, thể hiện rằng nền kinh tế đang giảm tốc mạnh đến thế nào. Chính những yếu tố này đã thúc đẩy Bắc Kinh phải nhượng bộ và đi đến bàn đàm phán với Washington để xoa dịu những căng thẳng bấy lâu nay.
Nếu hai nước đi đến một hiệp ước thương mại thì tâm lý của giới đầu tư có thể được làm dịu và thậm chí còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ít nhất là trong một thời gian ngắn. Nhưng thỏa thuận với Mỹ cũng chưa thể khép lại những gì Trung Quốc đang phải chịu đựng. Mặc dù thuế quan là rất đáng lo ngại, nhưng những vấn đề thực sự lại trầm trọng hơn thế và liên quan tới cấu trúc tài chính của nước này.
Trung Quốc đã rơi vào khủng hoảng, dù không nhiều người chú ý
Điều ít được chú ý tới đó là Trung Quốc thực ra đã nằm trong “vòng tròn” khủng hoảng. Nó không giống như sự sụp đổ như những gì nước Mỹ trải qua hồi năm 2008 hay cuộc khủng hoảng của các nền kinh tế đứng đầu châu Á năm 1997. Mà đó là một cuộc khủng hoảng, được “tạo ra” bởi các ngân hàng “ngồi” trên cả “núi” nợ xấu, các công ty phá sản và những gói cứu trợ của nhà nước.
Cuộc khủng hoảng này không chỉ đơn thuần là tốc độ tăng trưởng chậm lại mà nó đã diễn ra trong một thời gian và sẽ không sớm kết thúc. Việc Trung Quốc chọn cách thức nào để giải quyết, hoặc không giải quyết, sẽ mang đến những tác động còn lớn hơn nhiều so với sự giảm tốc của nền kinh tế trong vài quý. Bởi cuộc khủng hoảng này là về tương lai của kinh tế Trung Quốc và liệu quốc gia này có thể bước vào nhóm những nước có nền kinh tế tiên tiến nhất hay không. Và nó cũng xác định xem liệu Trung Quốc sẽ là trụ cột của tăng trưởng toàn cầu hay là mối đe dọa đối với sự ổn định tài chính của thế giới.
Xét về bề ngoài, ý kiến cho rằng Trung Quốc đang nằm trong cuộc khủng hoảng nghe có vẻ vô lý. Tăng trưởng kinh tế giảm tốc nhưng vẫn tương đối mạnh khi nhìn vào các số liệu của chính phủ. Các ngân hàng và công ty không rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán trên quy mô lớn. Đồng NDT thậm chí cũng có dấu hiệu mạnh lên trong những ngày gần đây. Trong khi người Trung Quốc đã cắt giảm chi tiêu do lo ngại về nền kinh tế tăng lên, nhưng họ lại không bị ảnh hưởng bởi tình trạng u ám mà những biến động tài chính gây ra.
Thật vậy, Trung Quốc có thể chưa bao giờ trải qua sự nỗi sợ hãi, hoảng loạn xuất phát từ Phố Wall hồi năm 2008. Bởi cuộc khủng hoảng tài chính ở Trung Quốc không giống như những nơi khác. Thay vì sự sụp đổ bất ngờ của các ngân hàng khiến nhiều người chịu cảnh mất việc, thì “phiên bản” của Trung Quốc lại kéo dài, diễn ra chậm đến mức khó có thể nhận thấy. Cuối cùng, dẫu vậy, cái giá phải trả và những tổn thất là như nhau, hoặc có thể còn tệ hơn.
Khủng hoảng đến với Trung Quốc như thế nào?
Một vài năm trước, những nhà chuyên gia theo dõi thị trường Trung Quốc dự đoán nền kinh tế nước này có thể sẽ sụp đổ như cuộc khủng hoảng năm 2008. Tất cả các dấu hiệu cảnh báo đã chuyển thành màu đỏ: bong bóng nhà ở, công suất dư thừa trong các ngành công nghiệp từ thép cho tới tấm năng lượng mặt trời và đáng lo ngại nhất là khoản nợ khổng lồ đang tích tụ. Tổng số nợ so với sản lượng quốc gia đã tăng lên đến 253% vào giữa năm 2018, từ mức chỉ 149% ở thập kỷ trước đó, theo Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS). Kể từ năm 1990, không có một nền kinh tế mới nổi nào “ôm” khoản nợ lớn đến vậy mà thoát được khỏi thảm họa về tài chính.
Một số nhà phân tích đã theo dõi và chờ đợi về “khoảnh khắc Lehman Brothers” xảy đến với Trung Quốc, và nó đã ở đây. Một số khác lại cho rằng kinh tế Trung Quốc quá lớn bị “quật ngã”. Chính phủ Trung Quốc và lập luận mới có tác động rất lớn tới việc kiểm soát các ngân hàng, các tập đoàn lớn và dòng vốn, có thể ngăn chặn một cuộc khủng hoảng hoảng mà nền kinh tế tự do hơn không thể đối phó trước. Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đã đứng trên bờ vực của khủng hoảng hồi năm 2015, sau khi “quả bong bóng” chứng khoán vỡ vụn, do hoạt động quản lý yếu kém và và bộ máy quan liêu. Dòng tiền “tràn” ra khỏi thị trường trong nước, cùng lúc đó là đồng nội tệ không ổn định. Sau đó, chính phủ đã tung ra một gói cứu trợ cho thị trường chứng khoán và kiểm soát dòng vốn. Cuộc khủng hoảng đã được ngăn chặn.
Cách tiếp cận đó thể hiện cho chiến lược tổng thể của Bắc Kinh về vấn đề liên quan đến nợ, chính phủ không cho phép quả bong bóng nợ bị vỡ tung. Nhưng dù như thế nào thì cuộc khủng hoảng tài chính với những thuộc tính của Trung Quốc đang gây thiệt hại cho nền kinh tế.
Cũng như các cuộc khủng hoảng nợ khác, “sức khoẻ” của các ngân hàng Trung Quốc đang yếu dần đi. Mặc dù các khoản nợ xấu đã leo lên mức cao nhất trong vòng một thập kỷ vào cuối năm 2018, nhưng mức nợ chưa thanh toán vẫn là dưới 2%, theo chính phủ nước này. Hầu như không có ai tin vào con số thống kê đó.
Như những gì thường thấy trong các cuộc khủng hoảng, mức độ thực sự của một khoản nợ xấu và tổn thất có lẽ cao hơn bất kỳ dự đoán nào. Trong một nghiên cứu hồi tháng 10, S&P Global Rating lưu ý rằng khoản nợ của chính quyền địa phương Trung Quốc vẫn là một ẩn số, bởi rất nhiều trong số đó được đưa ra ngoài bảng cân đối kế toán. Khoản nợ “chìm” có thể là “bội số của con số được công khai”, có thể lên tới 6 nghìn tỷ USD.
Trung Quốc đang phải đối mặt với một vấn đề khác của khủng hoảng tài chính: vốn đầu tư bị rút ra ồ ạt. Bởi sự kiểm soát chặt chẽ, dòng tiền không thể “chạy ra ngoài” nhanh như khi ở trong một chế độ ít kiểm soát hơn, nhưng dù thế nào nó cũng sẽ đi đến thị trường nước ngoài. Trong 6 năm liên tiếp, Trung Quốc đã đứng đầu danh sách người nước ngoài mua bất động sản các khu dân cư của Mỹ cao nhất, theo Hiệp hội Bất động sản Quốc gia. Trong 12 tháng, tính đến tháng 3, người Trung Quốc đã mua hơn 30 tỷ USD giá trị bất động sản của Mỹ.
Về lý thuyết, khủng hoảng tài chính theo “kiểu” của Trung Quốc có những lợi thế hơn so với một cuộc khủng hoảng tài chính tiêu chuẩn. Bằng cách duy trì đà tăng trưởng và việc làm, Bắc Kinh đang dành thời gian để “sửa chữa” hệ thống. Các nhà quản lý đang cố gắng loại bỏ một số vấn đề. Đó là các vụ vỡ nợ doanh nghiệp tăng mạnh vào năm ngoái. Trên thực thế, chính phủ đang tạo điều kiện cho cuộc khủng hoảng diễn ra bởi họ quá chậm chạp trong việc loại bỏ những vấn đề đó.
Những nỗ lực của chính phủ trong việc hạn chế nợ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự giảm tốc của nền kinh tế. Vì vậy, như thường lệ, các nhà hoạch định chính sách lại mở van tín dụng. Theo đó, chính phủ nước này đang khiến cuộc khủng hoảng còn trầm trọng hơn. Trong tháng này, ngân hàng trung ương đã cắt giảm lượng tiền mặt mà mỗi ngân hàng bắt buộc phải dự trữ và cho phép họ vay nhiều hơn. Chắc chắn, họ đang tạo ra thêm những khoản nợ xấu.
Khoản nợ khổng lồ của Trung Quốc được tạo ra bởi các nhà máy thừa thãi, những công ty “xác sống”, việc phân bổ tài nguyên sai lệch và những yếu tố này đang kéo tụt tốc độ tăng trưởng của đất nước. Cuối cùng thì nhà nước sẽ phải can thiệp và giải quyết mớ hỗn độn đó, đúng như những gì chính phủ Mỹ đã làm hồi năm 2008. Việc hỗ trợ hệ thống ngân hàng của Trung Quốc có thể phải đòi hỏi tất cả Chương trình Cứu trợ Tài sản xấu cộng lại.
Trung Quốc nên làm gì để thoát khỏi “vũng lầy” này?
Có lẽ sẽ đến một thời điểm mà ngay cả các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc cũng nhận ra rằng khoản nợ này là rất nguy hiểm, việc kiểm soát nó phải được ưu tiên hơn so với tăng trưởng. Lạm phát cao hơn có thể sẽ thay đổi cục diện, bởi điều đó sẽ khiến ngân hàng trung ương khó khăn hơn trong việc tiếp tục bơm vào số tiền mặt mà hệ thống cần có để duy trì hoạt động. Nhưng sẽ khó có khả năng xảy ra, ít nhất là trong ngắn hạn. Lạm phát giảm mạnh đang khiến nhiều người lo ngại rằng Trung Quốc có thể đang bước vào thời kỳ giảm phát, khiến núi nợ của nước này còn nặng nề hơn.
Theo Dinny McMahon, tác giả của cuốn sách “China’s Great Wall Debt”, lưu ý về giải pháp thực sự và duy nhất là “thay đổi mô hình tăng trưởng của nền kinh tế.” Các nhà kinh tế học và chính sách đã tranh luận rằng Trung Quốc cần phải “tái cân bằng”, chuyển động lực từ đầu tư sang tiêu dùng. Nhưng điều đó sẽ không diễn ra một cách nhanh chóng. Mỗi lần chính phủ sử dụng tín dụng để thúc đẩy tăng trưởng, thì hệ thống kinh tế sẽ gặp trở ngại.
Vấn đề cơ bản là cải cách tự do hóa có thể đưa nền kinh tế đi theo hướng lành mạnh hơn đã không còn và sẽ không “hồi sinh” trong tương lai gần. Ưu tiên hàng đầu của Chủ tịch Tập Cận Bình là áp đặt sự kiểm soát của nhà nước lên mọi thứ, nên ông duy trì chương trình nghị sự kinh tế dựa vào đầu tư và các doanh nghiệp quốc doanh vốn là trung tâm của cuộc khủng hoảng tài chính “kiểu” Trung Quốc này. Các chính sách công nghiệp mới nhất của ông có thể mang đến nhiều sản phẩm hấp dẫn hơn như robot, vi mạch xe điện nhưng cũng có thể tạo ra một mớ hỗn độn như cũ: quá nhiều nhà máy, quá nhiều nợ và quá nhiều thứ bị lãng phí.
Ngay cả khi cách tiếp cận của ông Tập khai sinh ra các lĩnh vực mới và tạo đà tăng trưởng kinh tế, thì điều đó vẫn không thể giải quyết được những gì đã diễn ra. Các khoản nợ xấu không thể biến mất một cách kỳ diệu. Sự khác biệt duy nhất giữa một cuộc khủng hoảng tài chính thông thường và cuộc khủng hoảng tài chính ở Trung Quốc là thời gian. Hầu hết, những biến động thường thấy có thể biến mất trong vài tháng, còn của Trung Quốc có thể kéo dài vài năm. Là nền kinh tế mới nổi hàng đầu thế giới, Trung Quốc nên là nguồn hỗ trợ cho các nền kinh tế đang tụt dốc. Nhưng nếu Trung Quốc không thể giải quyết được cuộc khủng hoảng của chính mình thì đó sẽ là một gánh nặng cho toàn cầu.
theo Bloomberg