Đây là năm thứ 2 liên tiếp Việt Nam tụt hạng trên bảng xếp hạng môi trường kinh doanh do Ngân hàng Thế giới (World Bank) công bố, mặc dù điểm số môi trường kinh doanh có tăng với 2 cải cách được thực hiện.
Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố Báo cáo Môi trường Kinh doanh 2020 (Doing Business 2020). Trong 190 nền kinh tế được đánh giá, Việt Nam đạt 69,8/thang 100 điểm, cao hơn năm ngoái (68,36), nhưng lại tụt một bậc xuống thứ 70.
Đây là năm thứ 2 liên tiếp Việt Nam bị tụt hạng trong bảng xếp hạng Doing Business. Thứ hạng trong bảng xếp hạng năm 2019 và 2018 của Việt Nam lần lượt là 69 và 68.
New Zealand giữ vị trí số 1 trong danh sách quốc gia có môi trường kinh doanh thuận lợi. Đảo quốc sư tử Singapore đánh dấu năm thứ 4 liên tiếp giữ ngôi vị á quân về môi trường kinh doanh.
Một đại diện khác của khu vực Đông Á – Thái Bình Dương cũng nằm trong Top 5 nền kinh tế có điều kiện kinh doanh thuận lợi là Hongkong (Trung Quốc), đứng vị trí thứ 3.
Bên cạnh 2 đại diện trên, Top 25 nền kinh tế đứng đầu thế giới về môi trường kinh doanh còn có 3 đại diện của khu vực gồm Malaysia (thứ 12); Đài Loan, Trung Quốc (thứ 15); và Thái Lan (thứ 21). Đây là năm thứ hai liên tiếp Trung Quốc nằm trong top 10 nền kinh tế cải thiện nhiều nhất.
Ảnh minh họa. Nguồn: ĐH MIT.
Với 8 cải cách, Trung Quốc đã cải thiện quy định trong hầu hết các lĩnh vực được đánh giá trong Báo cáo Môi trường Kinh doanh và là nền kinh tế thực hiện nhiều cải cách nhất trong khu vực. Bắc Kinh đã đơn giản hóa các yêu cầu đối với xây dựng cơ bản và thủ tục cấp thoát nước, đồng thời cắt giảm thời gian xử lý các thủ tục cấp phép thêm 44 ngày. Công tác xây dựng hiện nay được đảm bảo an toàn hơn nhờ thi hành chặt chẽ các quy định về giám sát kỹ thuật.
Bên cạnh đó, quy trình kết nối lưới điện cho kho bãi cũng được cải thiện, biểu giá điện được minh bạch hóa. Trung Quốc cũng hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận thị trường quốc tế thông qua triển khai cơ chế khai báo hàng hóa trước, nâng cấp cơ sở hạ tầng cảng biển, tối ưu hóa thủ tục hải quan và công khai biểu phí.
Indonesia và Myanmar đã thực hiện 5 cải cách, đa phần đều liên quan đến ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Cụ thể, Indonesia bắt đầu áp dụng hệ thống nộp đơn và thanh toán trực tuyến đối với các loại thuế phổ biến và triển khai hệ thống quản lý hồ sơ điện tử cho thẩm phán. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cũng tăng cường xử lý trực tuyến tờ khai hải quan xuất khẩu, giảm thời gian hoàn thành thủ tục xuất khẩu tại cửa khẩu thêm 7 giờ.
Trong khi đó, Myanmar tăng cường kiểm soát chất lượng xây dựng, cải thiện cơ sở hạ tầng nước sạch vệ sinh và tăng cường hiệu quả quy trình xin cấp phép xây dựng, đưa nước này lên vị trí thứ 46 về chỉ số cấp phép xây dựng. Ngoài ra, Myanmar cũng bắt đầu công bố các báo cáo đo lường hiệu suất để giảm tranh chấp hợp đồng và áp dụng đăng ký doanh nghiệp trực tuyến.
Với 3 lĩnh vực cải cách trong năm qua, Philippines tiếp tục giữ vững đà phát triển. Một trong số những cải cách đã được thực hiện là xóa bỏ yêu cầu vốn tối thiểu đối với các doanh nghiệp trong nước. Quốc gia này cũng đơn giản hóa quy trình cấp giấy chứng nhận sử dụng đất.
Brunei, Lào, Papua New Guinea và Việt Nam đều tiến hành 2 cải cách. Brunei bắt đầu công bố các báo cáo đo lường hiệu suất của Tòa phúc thẩm Bandar Seri Begawan. Trong khi đó, Lào đã cải thiện chỉ số tiếp cận điện năng thông qua việc triển khai hệ thống Kiểm soát giám sát và thu thập dữ liệu tự động (SCADA) nhằm theo dõi tình trạng mất điện và khôi phục kết nối. Việt Nam nâng cấp hạ tầng thông tin của Tổng cục Thuế, hỗ trợ doanh nghiệp nộp thuế dễ dàng hơn.
Thống kê thứ hạng từ báo cáo Doing Business 2019 và Doing Business 2020.
Các nền kinh tế khu vực Đông Á–Thái Bình Dương đạt các điểm khá cao về tiếp cận tín dụng (với thứ hạng trung bình của khu vực là 82), tiếp cận điện năng (83) và cấp phép xây dựng (84). Cụ thể, ở khu vực Đông Á–Thái Bình Dương, để hoàn thành các thủ tục cấp nối điện mất trung bình 63 ngày với chi phí bằng 594,6% thu nhập bình quân đầu người, trong khi chỉ số này trên cả thế giới là 83 ngày và 1.049,8%.
Những lĩnh vực còn nhiều yếu kém là giải quyết tranh chấp hợp đồng (xếp thứ 105), giải quyết phá sản doanh nghiệp (105) và giao dịch thương mại qua biên giới (103). Các chỉ số này cho thấy khoảng cách khác biệt lớn giữa các nền kinh tế trong khu vực. Ví dụ ở Myanmar phải mất tới 1.160 ngày để giải quyết tranh chấp thương mại (xếp thứ 187 về Giải quyết Tranh chấp Hợp đồng) với chi phí bằng 110,3% mức phí được áp dụng ở Papua New Guinea (173).
Bảng xếp hạng dựa theo điểm trung bình của mỗi nền kinh tế được tính dựa trên 10 lĩnh vực tổng hợp của Báo cáo Môi trường Kinh doanh năm nay. Bảng xếp hạng này cho thấy khoảng cách của mỗi nền kinh tế với các nền kinh tế đi đầu về các quy định kinh doanh. Điểm số càng cao chứng tỏ môi trường kinh doanh càng hiệu quả và các định chế pháp lý càng chặt chẽ.